Người khác thì Mỹ Toa không biết, nhưng bản thân mình thì nàng hiểu rõ. Sở dĩ nàng còn ở lại Đại Nhật Cung, ở lại Tây viện này bởi vì... nàng không cam tâm.
Nàng không làm gì sai cả. Nàng có thể bị người hắt hủi, bị người xa lánh, bị đối xử như một tội nhân nhưng nàng sẽ không bao giờ tự mình chấp nhận những điều đó.
Nàng không rời khỏi đây, nàng không có tội!
Nếu có một ngày phải rời bỏ Đại Nhật Cung này thì nàng cũng muốn ngẩng cao đầu mà bước đi, hiên ngang không lưu luyến. Tuyệt không phải ra đi trong sự khinh khi, chế giễu và nhục mạ!
Nàng im lặng, tự thu mình trong góc tối nhỏ hẹp, sống dưới những lời cay độc của mọi người với câu xin lỗi luôn treo bên miệng. Có lẽ tất cả đều nghĩ rằng nàng cam chịu số phận này, cam chịu kiếp sống này...
Cam chịu sao?
Không! Mỹ Toa nàng chưa từng một lần cam chịu!
Trong từng phút từng giờ, từng tháng từng năm, không lúc nào nàng không chiến đấu cả.
Kể từ cái năm mà nàng bị tách ra khỏi mọi người để đến sống tại căn phòng tạm bợ này, những cay đắng mà nàng đã phải nếm trải có mấy ai hiểu được.
Năm đó, nàng chỉ là một cô bé chưa đầy tám tuổi. Trong đêm đầu tiên ở căn phòng xa lạ này, nàng đã khóc rất nhiều, khóc rất lâu.
Khóc vì tiếng gió lay rùng rợn, khóc vì sương đêm lạnh buốt, khóc vì trống trải, vì cô đơn...
Nàng trùm chiếc chăn mỏng, ngồi co mình trong góc phòng, thân thể run lên bần bật vì lạnh khiến cho tiếng khóc càng thêm nức nở nghẹn ngào. Mãi đến khi nàng thiếp đi...
Rồi nàng cũng dần quen với cái lạnh, quen với sự cô đơn. Ấy thế mà cuộc đời đã chịu để yên đâu. Gió của đêm nàng đã quen nhưng gió của đời nàng vẫn phải nếm trải. Lúc ấy, một thứ quen thuộc khác bắt đầu xuất hiện trong tâm trí nàng - đói.
Thời gian đầu thì không có việc gì, ngày hai bữa cơm nàng vẫn được ăn đủ ở phòng ăn dành cho tạp dịch. Nhưng kể từ tháng thứ hai, những cơn đói triền miên bắt đầu ám ảnh nàng. Tất cả chỉ vì một đại thẩm nào đấy mà nàng không biết tên đột ngột qua đời. Và như một điều hiển nhiên, hai chữ sát tinh lại một lần nữa được gán trên người nàng.
Sau đó, những người tạp dịch kia cũng xua đuổi nàng, họ không cho nàng ăn cùng, họ bảo nàng chỉ được phép đến khi đã không còn ai ở phòng ăn nữa. Nàng ngậm ngùi, gật đầu vâng theo trong nghẹn ngào...
Nàng không báo với chấp sự cũng chẳng nói cho ai cả. Mà nàng thì có ai để nói đâu? Có ai sẽ nghe nàng đây? Vừa trông thấy nàng, không phải xua đuổi thì họ cũng tránh xa mà thôi.
Mỗi ngày, nàng đều mong cho nắng mau tắt, mong mặt trời mau lặn, mong cho thời gian qua đi thật nhanh. Mỗi đêm, nàng ngồi đợi đến tận khuya, khi những người tạp dịch đã xong việc và về hết, lúc ấy nàng mới mò mẫm đi đến phòng ăn trên con đường tối mịt.
Có nhiều lần khi đến nơi, đồ ăn đã hết tự lúc nào. Trong cơn đói cồn cào, nàng góp nhặt từng chút thức ăn thừa sót lại trong nồi, chảo và bát đĩa chưa rửa...
Trong đêm tối, thấp thoáng hình bóng một đứa bé vừa cầm thức ăn đưa lên miệng vừa nức nở khóc...
Cứ thế, những cơn đói triền miên luôn thường trực ám ảnh nàng trong suốt hơn hai năm ròng, cho đến tận năm nàng mười tuổi.
Không phải bỗng nhiên xuất hiện một người đối đãi tốt với nàng, chia đồ ăn hoặc là lén mang cơm gì đó. Nàng đã từng trông chờ một người như thế, một phép màu. Nhưng rồi theo thời gian trôi đi, nàng không hy vọng hay đợi chờ gì nữa.
Hằng ngày, nàng ra khu rừng nhỏ ở hậu sơn Tây viện để hái một ít quả dại hoặc đào nhổ chút rau củ để lót bụng. Có một lần, nàng đào được mấy củ mài màu xám rất lớn, sau đó liền mang về, trong lòng có chút mừng rỡ vì nghĩ mấy ngày tới sẽ được no bụng.
Thế nhưng sau khi luộc lên, ăn vào chưa được bao lâu thì bụng đột nhiên đau dữ dội, nàng nằm lăn lộn trên nền đất lạnh với dáng vẻ vô cùng khổ sở.
Chẳng có ai nhìn thấy.
Sau này nàng mới biết thì ra đó cũng không phải củ mài gì mà là một loại củ rất độc, chỉ với một miếng nhỏ là có thể giết chết tu sĩ Ngự Không Cảnh trở xuống. Nàng cũng thấy khó hiểu là tại sao mình đã ăn gần nửa củ mà vẫn còn sống.
Có lẽ ông trời còn chưa muốn để nàng chết...
Tuổi thơ của nàng trôi qua như thế. Trong lạnh, đói và cô đơn. Mãi cho đến khi nàng tu luyện được chút đạo hạnh, chính thức bước vào hàng ngũ tu sĩ thì cuộc sống mới được cải thiện đôi chút. Ít ra nàng không còn bị đói nữa, hàng tháng lại được nhận thêm linh thạch và đan dược để tu luyện...
Trong sự hắt hủi và xa lánh, để tu luyện tới cảnh giới hôm nay, chỉ có bản thân nàng mới biết mình đã phải trả giá thế nào, đã phải nổ lực ra sao. Thậm chí đôi lúc nghĩ lại nàng không dám tin là mình đã có thể vượt qua như thế.
Khi nhìn thấy bộ dáng rụt rè nhút nhát của nàng, mọi người đều cho rằng nàng chấp nhận, nàng cam chịu.
Hoàn toàn không! Nàng chưa từng bỏ cuộc! Nàng vẫn chiến đấu! Một cách âm thầm và lặng lẽ.
Nàng không sợ hãi mà chỉ là tự thu mình lại.
...
Không biết bây giờ hắn đang làm gì...
Mỹ Toa đột ngột thì thào tự nói. Sau đó, nàng ngẩng đầu nhìn vầng trăng mờ nhạt...
...
Trong một khu rừng rậm rạp.
Một nhân loại và một yêu thú đang đứng đối diện nhìn nhau. Nhân loại là một thiếu niên, tướng mạo trông còn rất trẻ, chỉ độ mười chín, hai mươi tuổi. Yêu thú là một con hắc hổ cao lớn dữ tợn, to hơn gấp năm lần thiếu niên là ít. Thế nhưng lúc này, hắc hổ lại tỏ ra vô cùng bất an, dáng vẻ dường như rất e ngại thiếu niên kia.
Hai tay thiếu niên đột ngột kết thành một pháp ấn kỳ lạ, sau đó đánh ra.
Một hư ảnh đầu lâu cao khoảng một thước tức thì xuất hiện.
Vừa nhìn thấy đầu lâu kia, hắc hổ trợn tròn mắt kinh hãi, vội vàng há miệng phun ra một luồng hắc quang mãnh liệt để ngăn chặn.
O... à... n... h...
Tiếng nổ trầm đục vừa dứt, hắc hổ liền ngã lăn đùng ra đất trong khi hai mắt còn chưa hết kinh hoàng.
Quan sát thi thể kia một hồi, thiếu niên khẽ lẩm bẩm với giọng điệu cảm thán:
Uy lực quả nhiên rất đáng sợ!
Đứng trầm tư một lúc, thiếu niên bỗng khẽ thở dài, sau đó hóa thành một đạo kim quang bay về hướng Đại Nhật Cung.
Sau khi đột phá vào Hoàng Cảnh hậu kỳ, hắn đã dùng suốt ba tháng để tu luyện Toái Hồn Ấn. Theo như đánh giá của mình, hắn cảm thấy so với Toái Tâm Nhãn thì Toái Hồn Ấn dễ luyện hơn nhiều.
Nhưng đó là so với Toái Tâm Nhãn, còn nếu đem so với những thuật pháp thần thông khác thì phải nói là rất khó.
Theo như lời Nghiệt thì Toái Hồn Ấn được chia làm ba tầng, cứ tăng lên một tầng thì số lượng đầu lâu đánh ra sẽ nhiều hơn một cái, uy lực cũng trở nên mạnh mẽ hơn.
Trong suốt ba tháng qua, hắn đã luyện hóa hết toàn bộ hai viên Ma châu, không ngừng khổ luyện ngày đêm vậy mà cũng chỉ miễn cưỡng đạt đến cảnh giới tiểu thành của tầng một Toái Hồn Ấn. Hắn không biết phải đến khi nào và phải cần bao nhiêu ma khí mới luyện được Toái Hồn Ấn tới cảnh giới đại thành tầng ba. Về phần Toái Tâm Nhãn, hắn e là mình không có khả năng luyện thành khi còn ở Thiên Vũ đại lục này.
Không giống với linh khí có thể hấp thu từ thiên địa và linh thạch, ma khí ở đây thật sự không nhiều, ngoài Âm Hồn Cốc và U Minh Chi Địa thì hắn cũng chẳng biết thu thập ở đâu nữa. Những địa phương có Quỷ hồn tuy là không hiếm, nhưng có thể tu luyện tới cấp bậc Quỷ vương thì gần như chỉ có tại hai nơi U Minh Chi Địa và Âm Hồn Cốc.
Thật ra, ngoài âm hồn quỷ vật thì vẫn còn một thứ chứa đựng ma khí nữa, đó là ma thạch. Vũ trụ chia âm dương, diễn sinh tử, phân thiện ác... Mọi thứ đều có hai mặt trái ngược nhau. Nếu đã có linh thạch thì dĩ nhiên sẽ có ma thạch.
Như tên gọi, ma thạch là một loại tinh thạch ẩn chứa ma khí. Giống như linh thạch, ma thạch cũng được chia thành các cấp bậc khác nhau theo thứ tự từ thấp đến cao là : hạ phẩm ma thạch, trung phẩm ma thạch, thượng phẩm ma thạch, cực phẩm ma thạch, thánh phẩm ma thạch và tiên phẩm ma thạch.
Nhưng đáng tiếc, ở một phàm giới như Thiên Vũ đại lục này không hề có ma thạch. Nó chỉ được sinh ra ở những tinh cầu mà thứ bao trùm trong thiên địa nơi đó là ma khí chứ không phải linh khí như ở đây. Những tinh cầu ngập tràn ma khí đó không phải nơi dành cho nhân loại sinh sống mà nó thuộc về thế giới của các chủng tộc Quỷ vật.
Nếu không phải Thiên Vũ đại lục này không có ma thạch thì lúc nãy hắn cũng không cần phải thở dài phiền muộn. Hiện tại hắn không thể lại vào Âm Hồn Cốc đế săn giết Quỷ vương, hắn còn chưa muốn bị mấy vị đại Quỷ vương kia vây giết. Về phần U Minh Chi Địa thì lại càng không thể vào lúc này. Theo lời Cổ Mị Sanh thì hắc vụ bao quanh nó vô cùng đáng sợ, đến cả cường giả Chân Đan Cảnh cũng chỉ có thể tránh lui. Tuy rằng không biết tại sao lúc trước xông vào hạp cốc quỷ dị nọ trong Tùng Nguyệt Lâm mà không bị gì nhưng hắn cũng không dám đánh liều mạng sống mà đi vào U Minh Chi Địa. Vận khí không phải lúc nào cũng tốt, biết đâu vừa vào thì lập tức chết bất đắc kỳ tử cũng không chừng.
Vậy nên sau khi cân nhắc một hồi, hắn quyết định tạm thời quay về Đại Nhật Cung, đợi đến Quần Long Đại Hội. Lúc ấy, hắn sẽ tham gia để đoạt lấy danh ngạch vào U Minh Chi Địa cho Đại Nhật Cung, sau đó lại yêu cầu Cổ Mị Sanh cho mình một suất. Như vậy, việc thu thập ma khí để tu luyện của hắn mới không bị trì trệ quá nhiều.
Nàng không làm gì sai cả. Nàng có thể bị người hắt hủi, bị người xa lánh, bị đối xử như một tội nhân nhưng nàng sẽ không bao giờ tự mình chấp nhận những điều đó.
Nàng không rời khỏi đây, nàng không có tội!
Nếu có một ngày phải rời bỏ Đại Nhật Cung này thì nàng cũng muốn ngẩng cao đầu mà bước đi, hiên ngang không lưu luyến. Tuyệt không phải ra đi trong sự khinh khi, chế giễu và nhục mạ!
Nàng im lặng, tự thu mình trong góc tối nhỏ hẹp, sống dưới những lời cay độc của mọi người với câu xin lỗi luôn treo bên miệng. Có lẽ tất cả đều nghĩ rằng nàng cam chịu số phận này, cam chịu kiếp sống này...
Cam chịu sao?
Không! Mỹ Toa nàng chưa từng một lần cam chịu!
Trong từng phút từng giờ, từng tháng từng năm, không lúc nào nàng không chiến đấu cả.
Kể từ cái năm mà nàng bị tách ra khỏi mọi người để đến sống tại căn phòng tạm bợ này, những cay đắng mà nàng đã phải nếm trải có mấy ai hiểu được.
Năm đó, nàng chỉ là một cô bé chưa đầy tám tuổi. Trong đêm đầu tiên ở căn phòng xa lạ này, nàng đã khóc rất nhiều, khóc rất lâu.
Khóc vì tiếng gió lay rùng rợn, khóc vì sương đêm lạnh buốt, khóc vì trống trải, vì cô đơn...
Nàng trùm chiếc chăn mỏng, ngồi co mình trong góc phòng, thân thể run lên bần bật vì lạnh khiến cho tiếng khóc càng thêm nức nở nghẹn ngào. Mãi đến khi nàng thiếp đi...
Rồi nàng cũng dần quen với cái lạnh, quen với sự cô đơn. Ấy thế mà cuộc đời đã chịu để yên đâu. Gió của đêm nàng đã quen nhưng gió của đời nàng vẫn phải nếm trải. Lúc ấy, một thứ quen thuộc khác bắt đầu xuất hiện trong tâm trí nàng - đói.
Thời gian đầu thì không có việc gì, ngày hai bữa cơm nàng vẫn được ăn đủ ở phòng ăn dành cho tạp dịch. Nhưng kể từ tháng thứ hai, những cơn đói triền miên bắt đầu ám ảnh nàng. Tất cả chỉ vì một đại thẩm nào đấy mà nàng không biết tên đột ngột qua đời. Và như một điều hiển nhiên, hai chữ sát tinh lại một lần nữa được gán trên người nàng.
Sau đó, những người tạp dịch kia cũng xua đuổi nàng, họ không cho nàng ăn cùng, họ bảo nàng chỉ được phép đến khi đã không còn ai ở phòng ăn nữa. Nàng ngậm ngùi, gật đầu vâng theo trong nghẹn ngào...
Nàng không báo với chấp sự cũng chẳng nói cho ai cả. Mà nàng thì có ai để nói đâu? Có ai sẽ nghe nàng đây? Vừa trông thấy nàng, không phải xua đuổi thì họ cũng tránh xa mà thôi.
Mỗi ngày, nàng đều mong cho nắng mau tắt, mong mặt trời mau lặn, mong cho thời gian qua đi thật nhanh. Mỗi đêm, nàng ngồi đợi đến tận khuya, khi những người tạp dịch đã xong việc và về hết, lúc ấy nàng mới mò mẫm đi đến phòng ăn trên con đường tối mịt.
Có nhiều lần khi đến nơi, đồ ăn đã hết tự lúc nào. Trong cơn đói cồn cào, nàng góp nhặt từng chút thức ăn thừa sót lại trong nồi, chảo và bát đĩa chưa rửa...
Trong đêm tối, thấp thoáng hình bóng một đứa bé vừa cầm thức ăn đưa lên miệng vừa nức nở khóc...
Cứ thế, những cơn đói triền miên luôn thường trực ám ảnh nàng trong suốt hơn hai năm ròng, cho đến tận năm nàng mười tuổi.
Không phải bỗng nhiên xuất hiện một người đối đãi tốt với nàng, chia đồ ăn hoặc là lén mang cơm gì đó. Nàng đã từng trông chờ một người như thế, một phép màu. Nhưng rồi theo thời gian trôi đi, nàng không hy vọng hay đợi chờ gì nữa.
Hằng ngày, nàng ra khu rừng nhỏ ở hậu sơn Tây viện để hái một ít quả dại hoặc đào nhổ chút rau củ để lót bụng. Có một lần, nàng đào được mấy củ mài màu xám rất lớn, sau đó liền mang về, trong lòng có chút mừng rỡ vì nghĩ mấy ngày tới sẽ được no bụng.
Thế nhưng sau khi luộc lên, ăn vào chưa được bao lâu thì bụng đột nhiên đau dữ dội, nàng nằm lăn lộn trên nền đất lạnh với dáng vẻ vô cùng khổ sở.
Chẳng có ai nhìn thấy.
Sau này nàng mới biết thì ra đó cũng không phải củ mài gì mà là một loại củ rất độc, chỉ với một miếng nhỏ là có thể giết chết tu sĩ Ngự Không Cảnh trở xuống. Nàng cũng thấy khó hiểu là tại sao mình đã ăn gần nửa củ mà vẫn còn sống.
Có lẽ ông trời còn chưa muốn để nàng chết...
Tuổi thơ của nàng trôi qua như thế. Trong lạnh, đói và cô đơn. Mãi cho đến khi nàng tu luyện được chút đạo hạnh, chính thức bước vào hàng ngũ tu sĩ thì cuộc sống mới được cải thiện đôi chút. Ít ra nàng không còn bị đói nữa, hàng tháng lại được nhận thêm linh thạch và đan dược để tu luyện...
Trong sự hắt hủi và xa lánh, để tu luyện tới cảnh giới hôm nay, chỉ có bản thân nàng mới biết mình đã phải trả giá thế nào, đã phải nổ lực ra sao. Thậm chí đôi lúc nghĩ lại nàng không dám tin là mình đã có thể vượt qua như thế.
Khi nhìn thấy bộ dáng rụt rè nhút nhát của nàng, mọi người đều cho rằng nàng chấp nhận, nàng cam chịu.
Hoàn toàn không! Nàng chưa từng bỏ cuộc! Nàng vẫn chiến đấu! Một cách âm thầm và lặng lẽ.
Nàng không sợ hãi mà chỉ là tự thu mình lại.
...
Không biết bây giờ hắn đang làm gì...
Mỹ Toa đột ngột thì thào tự nói. Sau đó, nàng ngẩng đầu nhìn vầng trăng mờ nhạt...
...
Trong một khu rừng rậm rạp.
Một nhân loại và một yêu thú đang đứng đối diện nhìn nhau. Nhân loại là một thiếu niên, tướng mạo trông còn rất trẻ, chỉ độ mười chín, hai mươi tuổi. Yêu thú là một con hắc hổ cao lớn dữ tợn, to hơn gấp năm lần thiếu niên là ít. Thế nhưng lúc này, hắc hổ lại tỏ ra vô cùng bất an, dáng vẻ dường như rất e ngại thiếu niên kia.
Hai tay thiếu niên đột ngột kết thành một pháp ấn kỳ lạ, sau đó đánh ra.
Một hư ảnh đầu lâu cao khoảng một thước tức thì xuất hiện.
Vừa nhìn thấy đầu lâu kia, hắc hổ trợn tròn mắt kinh hãi, vội vàng há miệng phun ra một luồng hắc quang mãnh liệt để ngăn chặn.
O... à... n... h...
Tiếng nổ trầm đục vừa dứt, hắc hổ liền ngã lăn đùng ra đất trong khi hai mắt còn chưa hết kinh hoàng.
Quan sát thi thể kia một hồi, thiếu niên khẽ lẩm bẩm với giọng điệu cảm thán:
Uy lực quả nhiên rất đáng sợ!
Đứng trầm tư một lúc, thiếu niên bỗng khẽ thở dài, sau đó hóa thành một đạo kim quang bay về hướng Đại Nhật Cung.
Sau khi đột phá vào Hoàng Cảnh hậu kỳ, hắn đã dùng suốt ba tháng để tu luyện Toái Hồn Ấn. Theo như đánh giá của mình, hắn cảm thấy so với Toái Tâm Nhãn thì Toái Hồn Ấn dễ luyện hơn nhiều.
Nhưng đó là so với Toái Tâm Nhãn, còn nếu đem so với những thuật pháp thần thông khác thì phải nói là rất khó.
Theo như lời Nghiệt thì Toái Hồn Ấn được chia làm ba tầng, cứ tăng lên một tầng thì số lượng đầu lâu đánh ra sẽ nhiều hơn một cái, uy lực cũng trở nên mạnh mẽ hơn.
Trong suốt ba tháng qua, hắn đã luyện hóa hết toàn bộ hai viên Ma châu, không ngừng khổ luyện ngày đêm vậy mà cũng chỉ miễn cưỡng đạt đến cảnh giới tiểu thành của tầng một Toái Hồn Ấn. Hắn không biết phải đến khi nào và phải cần bao nhiêu ma khí mới luyện được Toái Hồn Ấn tới cảnh giới đại thành tầng ba. Về phần Toái Tâm Nhãn, hắn e là mình không có khả năng luyện thành khi còn ở Thiên Vũ đại lục này.
Không giống với linh khí có thể hấp thu từ thiên địa và linh thạch, ma khí ở đây thật sự không nhiều, ngoài Âm Hồn Cốc và U Minh Chi Địa thì hắn cũng chẳng biết thu thập ở đâu nữa. Những địa phương có Quỷ hồn tuy là không hiếm, nhưng có thể tu luyện tới cấp bậc Quỷ vương thì gần như chỉ có tại hai nơi U Minh Chi Địa và Âm Hồn Cốc.
Thật ra, ngoài âm hồn quỷ vật thì vẫn còn một thứ chứa đựng ma khí nữa, đó là ma thạch. Vũ trụ chia âm dương, diễn sinh tử, phân thiện ác... Mọi thứ đều có hai mặt trái ngược nhau. Nếu đã có linh thạch thì dĩ nhiên sẽ có ma thạch.
Như tên gọi, ma thạch là một loại tinh thạch ẩn chứa ma khí. Giống như linh thạch, ma thạch cũng được chia thành các cấp bậc khác nhau theo thứ tự từ thấp đến cao là : hạ phẩm ma thạch, trung phẩm ma thạch, thượng phẩm ma thạch, cực phẩm ma thạch, thánh phẩm ma thạch và tiên phẩm ma thạch.
Nhưng đáng tiếc, ở một phàm giới như Thiên Vũ đại lục này không hề có ma thạch. Nó chỉ được sinh ra ở những tinh cầu mà thứ bao trùm trong thiên địa nơi đó là ma khí chứ không phải linh khí như ở đây. Những tinh cầu ngập tràn ma khí đó không phải nơi dành cho nhân loại sinh sống mà nó thuộc về thế giới của các chủng tộc Quỷ vật.
Nếu không phải Thiên Vũ đại lục này không có ma thạch thì lúc nãy hắn cũng không cần phải thở dài phiền muộn. Hiện tại hắn không thể lại vào Âm Hồn Cốc đế săn giết Quỷ vương, hắn còn chưa muốn bị mấy vị đại Quỷ vương kia vây giết. Về phần U Minh Chi Địa thì lại càng không thể vào lúc này. Theo lời Cổ Mị Sanh thì hắc vụ bao quanh nó vô cùng đáng sợ, đến cả cường giả Chân Đan Cảnh cũng chỉ có thể tránh lui. Tuy rằng không biết tại sao lúc trước xông vào hạp cốc quỷ dị nọ trong Tùng Nguyệt Lâm mà không bị gì nhưng hắn cũng không dám đánh liều mạng sống mà đi vào U Minh Chi Địa. Vận khí không phải lúc nào cũng tốt, biết đâu vừa vào thì lập tức chết bất đắc kỳ tử cũng không chừng.
Vậy nên sau khi cân nhắc một hồi, hắn quyết định tạm thời quay về Đại Nhật Cung, đợi đến Quần Long Đại Hội. Lúc ấy, hắn sẽ tham gia để đoạt lấy danh ngạch vào U Minh Chi Địa cho Đại Nhật Cung, sau đó lại yêu cầu Cổ Mị Sanh cho mình một suất. Như vậy, việc thu thập ma khí để tu luyện của hắn mới không bị trì trệ quá nhiều.
/249
|